nhạc phẩm Tĩnh Dạ Tứ (thơ phóng tác Hải Đà, nhạc Mai Đức Vinh)
Lý Bạch là nhà thơ lớn thời Đường, là một ngôi sao sáng chói trên thi-văn-đàn Trung Quốc. Người ta thường gọi Ông là Thi Tiên (Trích Tiên Lý Bạch) , Lý Dương Băng trong "Thảo đường tập tự" đã có câu nói bất hủ về thiên tài Lý Bạch "Thiên tải độc bộ, duy công nhất nhân" (hàng ngàn năm chỉ có một mình ông mà thôi ) Lý Bạch đã để lại hơn một ngàn bài thơ có một ảnh hưởng rất sâu rộng trong lịch sử văn học Trung Quốc, phổ thông và được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian , cũng như nhiều học giả trên thế giới đã dày công nghiên cứu thi ca Lý Bạch . Thơ của Ông rất tự nhiên, không chải chuốt, gọt dũa mà ý thơ sâu sắc, có sức truyền cảm quyến rũ một cách lạ lùng .
Lý Bạch là thiên tài của những bài thơ Tuyệt Cú (4 câu 5 chữ), ngắn gọn, nhưng cô đọng, hàm súc, đầy đủ, là những tuyệt tác bất hủ được lưu truyền trong nhân gian từ đời này qua đời khác. Bài thơ Tĩnh Dạ Tứ (Xúc Cảm Đêm Trăng) của Lý Bạch là một kiệt tác tuyệt vời trong thế giới Đường Thi trùng trùng điệp điệp …. Hình thức cô động thâm thúy của bài thơ ngũ tuyệt 20 chữ nay là một thử thách lớn lao mà thi nhân phải đương đầu vì "ngôn bất tận ý" (lời không nói hết được ý ) và thi nhân phải dùng ngôn từ tương ứng như thế nào để có thể vừa miêu tả cảnh vật và diễn đạt một ấn tượng dạt dào, một cảm xúc lai láng.
Lý Bạch là một người có tài, nhưng lại là người ít may mắn trên đường công danh sự nghiệp . Ông là người hay đi đây đó, làm thân lữ khách nơi quán trọ tha phương, xa nhà, xa quê, xa gia đình bạn bè … Và bài thơ "Tĩnh Dạ Tứ" đã diễn tả nỗi cảm xúc bâng khuâng , xao xuyến, cái nỗi niềm tha phương nhớ nhà da diết, khi màn đêm hoang vắng đã buông phủ bốn bề, trong khung cảnh tịch liêu, cô đơn, của người viễn khách một mình một bóng canh thâu … nhìn qua khung cửa , xa xa, chập chờn mộng ảo, là vầng trăng tỏa ánh sáng lung linh huyền ảo .. đã làm cho nhà thơ chạnh lòng thương nhớ quê hương . Bài thơ đã bộc lộ những xúc cảm sống động, dạt dào, rung lên những âm vang tha thiết của nhạc điệu trữ tình …
Trong sách Nghệ khái, Lưu Huy Tải đã nói : "Thơ tứ tuyệt dễ làm, không có chữ thừa, nhưng tạo được cái dư vị thật là khó". Cái "dư vị" trong bài thơ Tĩnh Dạ Tứ của Lý Bạch chỉ là cảnh sắc "vô tình" của màn đêm huyền ảo với trăng, sương chập chùng, nhưng rất là "hữu tình" đã đem lại những cảm xúc nao nao xót dạ, đã đưa người thơ đi tìm lại những mảnh ký ức, hồi tưởng của cố quận, sông xưa, núi cũ, quê nhà . Người phương xa vẫn canh cánh nặng nợ tình quê …
Tĩnh Dạ Tứ
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương
Lý Bạch
Ghi chú : có sách ghi rằng
-câu 1 : Sàng tiền khán nguyệt quang
-câu 3: Cử đầu vọng sơn nguyệt
(theo học giả Vương Vận Hy : "Nhìn nhận cho kỹ trong thơ Lý Bạch, "Sơn nguyệt" và "Cố hương" hình như có liên hệ đặc biệt trên con đường lữ hành rời đất Thục, Lý Bạch đã viết bài tuyệt cú "Nga mi sơn nguyệt ca" … Ông yêu cố hương Yên sơn và nguyệt núi Nga mi. Thuở nhỏ ông thường lên đỉnh núi Nga Mi (Tứ Xuyên) ở quê cha đất tổ để ngắm trăng, và sau khi đi ngao du sơn thủy, nỗi nhớ quê hương của ông thường dâng trào mãnh liệt … Do đó khi ở quê hương khác trong đêm yên tĩnh nhìn trăng sáng vượt qua đầu núi chiếu vào giường, ông nghĩ đến núi và trăng ở Nga mi, nghĩ đến chuyện quê hương là chuyện tất nhiện"
Dịch nghĩa:
Ánh trăng chiếu sáng đầu giường
Ngỡ như sương trắng phủ sân nhà
Ngẩng đầu lên nhìn trăng sáng
Cúi đầu xuống nhớ quê cũ
Dịch thơ: Xúc Cảm Đêm Trăng
1-
Đầu giường trăng tỏ rạng
Đất trắng ngỡ như sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
2-
Giường khuya trăng chiếu bời bời
Sương rơi phủ đất ngỡ đời chiêm bao
Ngẩng đầu trăng sáng trên cao
Cúi đầu ngấn lệ nghẹn ngào.... cố hương
Hải Đà